Hoàn cảnh sáng tác[2] Hạ_trắng

Hạ trắng được Trịnh Công Sơn viết năm 1961, sau một cơn mơ lạ giữa cái nắng chói chang, bỏng rát của trưa hè xứ Huế. Đợt ấy, nhạc sĩ lên cơn sốt nặng. Giữa cơn sốt mê man, trong thoáng chốc ông cảm nhận cả thân thể bỗng dưng nhẹ bẫng, trôi bềnh bồng trong mùi thơm lan tỏa của hoa dạ lý hương.

Tỉnh dậy, toàn thân ông ướt đẫm mồ hôi, Trịnh Công Sơn mới hay mình vừa bước ra khỏi một cơn mơ kỳ lạ. Ngó sang thấy trên bàn có ai đó đã cắm sẵn một lọ hoa dạ lý hương, ông hiểu ra chính mùi hương dịu dàng, thơm ngát kia đã đưa ông vào cơn mê chếnh choáng.

Từ giấc mơ giữa trưa mùa hạ ấy, tứ thơ về giai nhân áo trắng bước đi trong chiều không mây bắt đầu nhen nhóm thành hình.

Một tuần sau khi hết bệnh, Trịnh Công Sơn đến thăm bố một người bạn đang hấp hối. Hỏi ra mới hay ông cụ chẳng mắc chứng bệnh nghiêm trọng nào ngoài “bệnh tương tư”. Một ngày nọ, bà cụ trúng gió, bất tỉnh rồi qua đời. Những người con hiểu lòng cha nên giấu chuyện, kín đáo lo liệu và chôn cất bà cụ. Khi không còn thấy vợ, cụ ông dần hiểu ra, đâm ngã bệnh và qua đời sau đó không lâu.

Câu chuyện cảm động của mối tình già ám ảnh Trịnh Công Sơn sâu sắc. Ông đã viết Hạ trắng trong cảm thức hư thực ngay mùa hè năm ấy.[2]

Giấc mơ Hạ trắng - Trịnh Công Sơn - cảm hứng sáng tác[3]

Trịnh Công Sơn kể lại cảm hứng sáng tác bài Hạ trắng:

"Ở Huế mùa hạ, ve kêu râm ran trên những tàn cây như một giàn hợp xướng và nắng nóng oi bức như địa ngục. Thêm vào đó còn có gió Lào. Vừa tắm xong là người đã ướt đẫm mồ hôi. Bao nhiêu nhiên liệu tích lũy tích lũy trong cơ thể đều tan ra thành nước. Những đồ vật và áo quần cũng có cảm giác như vừa rút trong lò lửa ra. Những mặt đường gần như bốc khói với nhiệt độ 42- 43 độ.

Có một mùa hạ năm ấy tôi bị một cơn sốt nặng, nhiệt độ trong người và bên ngoài bằng nhau. Tôi nằm sốt mê man trên giường không còn biết gì. Và bỗng có một lúc nào đó tôi cảm thấy hương thơm phủ ngập cả căn phòng và tôi chìm đắm vào một giấc mơ như một cơn mê sảng. Tôi thấy mình lạc vào một rừng hoa trắng thơm ngào ngạt, bay bổng trong không gian đó. Ðến lúc tỉnh dậy người ướt đẫm mồ hôi và tôi nhìn thấy bên cạnh giường có một người con gái nào đó đã đến cắm một bó hoa dạ lý hương trắng rất lớn. Chính cái mùi thơm của dạ lý hương đã đưa tôi vào giấc mơ kia. Giấc mơ trong một mùa hạ nóng bức.

Trong vùng tôi ở, quanh đó chỉ có một nhà duy nhất trồng dạ lý hương nên tôi biết ngay người mang hoa đến là ai.

Sau một tuần lễ tôi hết bệnh. Nghe tin bố người bạn đang hấp hối tôi vội vàng đến thăm. Ông chẳng có bệnh gì ngoài bệnh nhớ thương và buồn rầu. Câu chuyện rất đơn giản. Hai ông bà đã lớn tuổi thường nằm chung trên một sập gụ xưa. Cứ mỗi sáng bà cụ thức dậy sớm và xuống bếp nấu nước sôi để pha trà cho ông cụ uống. Một buổi sáng nọ, cũng theo thường lệ, bà cụ xuống bếp bị gió ngã xuống bất tỉnh và chết. Mấy người con ở gần đó tình cờ phát hiện ra và đưa bà cụ về nhà một người để tẩm liệm. Sau đó chôn cất và giấu ông cụ. Tất nhiên, khi ông cụ thức dậy hỏi con, mẹ các con đi đâu rồi, thì họ trả lời là mẹ sang nhà chúng con để chăm sóc mấy cháu vì chúng bị bệnh. Vài ngày sau vẫn chưa thấy bà về ông mới trầm ngâm hỏi các con có phải mẹ các con đã chết rồi phải không. Lúc ấy mọi người mới khóc òa lên. Từ đó ông nằm trên sập gụ một mình cơm không ăn, trà không uống cho đến lúc kiệt sức và đi theo bà cụ luôn.

Câu chuyện này ám ảnh tôi một thời gian. Và sau đó tôi kết hợp giấc mơ hoa trắng mùa hạ với mối tình già keo sơn này như áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau để viết nên bài "Hạ trắng"."[3]